Tổng quan về hệ thống PCS 7

PCS 7 là Giải pháp tự động hóa tích hợp tổng thể cho hệ thống điều khiển quá trình

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2013

Địa chỉ liên hệ


Địa chỉ liên hệ

Công ty TNHH ĐIỆN - TỰ ĐỘNG HÓA AN SINH
Địa chỉ: A4C1 Cư Xá Điện Lực - Phường Trường Thọ - Quận Thủ Đức -TPHCM
Điện thoại: 0985356390
Số Fax:
Email: linh.trinh@ansinhautomation.com

DỊCH VỤ KỸ THUẬT


DỊCH VỤ KỸ THUẬT
THIẾT KẾ VÀ LẮP ĐÂT HỆ THỐNG TỦ BẢNG ĐIỆN
Thiết kế lắp đặt tủ phân phối, tủ MCC & bảng điều khiển là năng lực đặc biệt tốt của công ty chúng tôi. Với dãy sản phẩm rộng và linh hoạt:
- Tủ điện nhỏ và lớn
- Từ đơn giản đến phức tạp
- Phạm vi ứng dụng rộng trong nhiều ngành công nghiệp: thép, xi măng, Thực phẩm và nước giải khát, nước sạch...

MCC Panel


DỊCH VỤ KỸ THUẬT CHO HỆ THỐNG PLC, SCADA VÀ BIẾN TẦN
Với hơn 5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực này, chúng tôi có thể thực hiện nhiều loại công việc điều khiển quá trình, từ một hệ thống điều khiển đơn giản đến hệ thống kiểm soát toàn bộ nhà máy.
- PLC: Siemens, Rockwell và Omron
- SCADA: WinCC, iFIX, CITEC và Wonderware.
- Mạng trường: Modbus, Profibus, Profinet...
- Biến tần: Simovert, Simoreg, Sinamics (Siemens), ACS__(ABB), PowerFlex (Rockwell)



DỊCH VỤ KỸ THUẬT CHO  THIẾT BỊ ĐO 










    - 

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2013

Phương pháp lập trình cho dòng PLC AB


Phương pháp lập trình cho dòng PAC COMPACTLOGIX của ROCKWELL

EmailInPDF.
Chúng ta đã biết các thế mạnh của dòng PAC CompactLogix, một dòng PLC chất lượng cao của Rockwell tuy nhỏ gọn nhưng rất mạnh mẽ, tin cậy, linh hoạt, dễ dàng trong việc lắp đặt và bảo trì ... Trong bài này chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu phương pháp lập trình, debug chương trình cho dòng PLC này.
PAC-CompactLogix
I. Kết nối PLC với máy tính
Dòng CompactLogix của Rockwell có 2 cổng giao tiếp để kết nối với máy tính cũng như kết nối với mạng điều khiển: Một cổng RS232 được cách ly hoàn toàn và có thể nối trực tiếp vào mạng (Ngoại trừ bộ điều khiển L35 có 2 cổng RS232), và một cổng RJ45 để kết nối mạng Erthernet. Với hai cổng truyền thông này, người dùng có thể tích hợp PLC vào hầu hết các mạng điều khiển. Với bộ phần mềm mạnh mẽ đi kèm, chúng ta có thể dễ dàng kết nối PLC với máy tính để lập trình, debug, điều khiển PLC hay thu thập số liệu từ PLC lên máy tính.
Để kết nối máy tính với cổng RS232, trước tiên ta cần nối dây từ cổng RS232 của máy tính tới cổng RS232 của PLC bằng cáp 1747-CP3 hoặc 1756-CP3.  Nếu là cáp tự nối thì phải nối cáp chéo theo sơ đồ hình 1:
pac-rockwell-1
Hình 1 : Sơ đồ nối dây cho cáp RS232
Dùng phần mềm RSLinx để cài driver cho cổng RS232. Mở phần mềm RSLinx Classic Gateway. Vào thẻ CommunicationConfigure Drivers, hộp thoại cấu hình driver hiện lên: Trong ô Available Driver Devices, kéo combo box xuống và chọn RS-232 DF1 devives. Sau đó nhấn Add NewOK. Các bạn nhập các thông số về cổng truyền thông, tốc độ baud … như mong muốn và nhấn OK.  Sau đó, các bạn sẽ thấy trong mục Configure Drivers hiện lên dòng thông báo Driver cho cổng  RS232 đang chạy. 
Việc kết nối PLC với máy tính qua cổng mạng RJ45 có thể làm trực tiếp qua cáp mạng được đấu thẳng hoặc thông qua hub. Khi kết nối đã được xác lập đúng, quan sát đèn Link(LNK) bên cạnh cổng RJ45 sẽ chuyển sang màu xanh ổn định. Để máy tính có thể giao tiếp với PLC thông qua cổng mạng, trước tiên ta phải thiết lập một IP cho PLC. Trước tiên, đặt IP tĩnh cho máy tính (ví dụ là 192.167.1.117). Ghi nhớ Subnet Mask của máy tính (thường là 255.255.255.0). Mở phần mềm BOOTP-DHCP Server có trong bộ phần mềm Rockwell Software. Vào mục ToolNetwork Setting. Nhập Subnet Mask  và nhấn OK. Trong hộp Request History sẽ hiện lên các thiết bị được liên kết mà chưa có IP. Chú ý thiết bị có địa chỉ MAC trùng với địa chỉ MAC của controller (Được ghi trên mặt Controller). Click đúp vào thiết bị đó và chỉ định một địa chỉ IP cho thiết bị (Không trùng với các thiết bị khác trong mạng). Khi đó trong hộp Relation List sẽ xuất hiện các mục địa chỉ MAC, tương ứng với các địa chỉ IP. Chọn mục đó, click vào nút Disable BOOTP/DHCP để kết thúc quá trình cài đặt IP. Khi mục Status hiển thị [Disable BOOTP/DHCP] Command successful  là quá trình cài đặt IP thành công.
pac-rockwell-2
Hình 2 : Giao diện cấu hình Driver cho PLC bằng RSLinx
 Khi bộ điều khiển đã được cấp IP mà ta muốn thay đổi IP cho nó, trước tiên ta phải xóa IP cũ rồi thiết đặt lại IP mới. Để xóa IP cũ, mở phần mềm BOOTP-DHCP Server. Trong mục Relation List nhấn nút New, nhập vào hộp thoại Properties địa chỉ MAC và IP cũ của bộ điều khiển rồi nhấn OK. Chọn Controller trong hộp Relation List và nhấn Delete. Đóng phần mềm BOOTP-DHCP Server lại, tắt nguồn PLC để hoàn tất quá trình xóa IP.
pac-rockwell-3
Hình 3 : Đặt IP tĩnh cho cổng Ethernet của PLC bằng BOOTP-DHCP Server
Khi PLC đã có IP, ta tiến hành cài đặt Driver cho cổng RJ45 bằng phần mềm RSLinx, tương tự như cài Driver cho cổng RS232. Chỉ khác là trong combo box Available Driver Devices ta chọn Ethernet/IP Driver  và trong hộp thoại Configure Driver : AB-ETHIP-1, ta chọn Browse Local Sub.  Kiểm tra trong hộp thoại Configure Drivers thấy có thông báo AB_ETHIP-1 AB-Ethernet Running là đã hoàn thành.
Sau khi cài đặt Driver cho cổng PLC thích hợp (bạn dùng cổng giao tiếp nào thì chỉ cần cài driver cho cổng đó), chúng ta cần cập nhật firmware cho PLC. Nếu PLC đã được cập nhật phiên bản firmware 17.x thì chúng ta có thể bỏ qua bước này. Vào thư mục ProgramFlash Programming Tool mở phần mềm ControlFlash. Trong Catalog Number, chọn đúng tên của bộ PLC, sau đó chọn đường liên kết tới thiết bị cần cập nhật, chọn phiên bản firmware cần cập nhật, chuyển khóa chế độ trên PLC sang vị trí PROG, nhấn Next FinishYes và chờ cho việc cập nhật hoàn thành.
Chú ý : - Cần chạy phần mềm RSLinx trong quá trình cập nhật Firmware
- Không được ngắt quãng trong quá trình cập nhất nếu không bộ điều khiển có thể không hoạt động được.
pac-rockwell-4
Hình 4 : Cập nhật Firmware cho bộ điều khiển bằng Control Flash
Chúng ta đã xong phần chuẩn bị kết nối PLC với máy tính. Bây giờ, chúng ta có thể dùng phần mềm RSLogix5000 của hãng để lập trình, debug, tải phần mềm xuống PLC cũng như lấy phần mềm từ PLC lên máy tính.
II. Lập trình cho PLC bằng phần mềm RSLogix5000.
RSLogix5000 là phần mềm chuyên dụng để lập trình cho các dòng PLC của Rockwell. Đây là một phần mềm mạnh, tích hợp cả 3 ngôn ngữ lập trình là: lập trình hình thang (ladder), lập trình hình khối (Block) và lập trình bằng mã nguồn (Source Code). Chúng ta sẽ tiếp cận việc lập trình bằng ngôn ngữ thông dụng nhất là ngôn ngữ ladder.
pac-rockwell-5
Hình 5 : Tạo dự án mới
1. Cấu hình các module cho hệ thống điều khiển
Mở phần mềm RSLogix5000. Tạo một dự án mới bằng cách vào FileNew.
Chọn đúng loại bộ điều khiển, đặt tên cho bộ điều khiển cũng là tên của dự án, chọn thư mục chứa dự án. 
pac-rockwell-6
Hình 6 : Giao diện quản lý dự án

Dự án được mở ra,  giao diện phần mềm như sau:
Trong phần I/O Configuration, chúng ta thấy tên bộ điều khiển mà ta đã chọn. Với dòng CompactLogix, ngoài module CPU còn có các module I/O tích hợp sẵn. Ta có thể thấy chúng trong phần Embedded I/O. Nếu chúng ta gắn thêm các module mở rộng khác vào hệ thống thì chúng ta phải khai báo trong phần Expansion I/O. Nếu không khai báo hoặc khai báo sai, các module sẽ không thể điều khiển được.
Khi các module đã được khai báo đầy đủ, chúng ta có thể cấu hình cho từng module riêng lẻ bằng cách click đúp chuột trái vào tên từng module. Mỗi module sẽ có một giao diện cấu hình riêng tùy thuộc vào chức năng của module đó. Nói chung, ta có thể cho phép/cấm các kênh I/O trên module, đặt các tùy chọn để báo lỗi, debug chương trình… Một thông số mà ta cần quan tâm trong khi cấu hình là RPI (Requested Packet Interval). PLC của Rockwell có cơ chế nhận dữ liệu từ các đầu vào bằng vòng quét độc lập với chương trình  logic chính. Cứ mỗi khoảng thời gian được chỉ định bằng thông số RPI, PLC lại cập nhật các đầu vào và đưa vào các vùng đệm tương ứng. Chương trình logic chính sẽ lấy số liệu từ các vùng đệm để thực hiện việc điều khiển. Việc thiết lập 2 vòng quét song song như vậy rất tiện lợi. Người lập trình không phải quan tâm tới việc xử lý ngắt trong quá trình lấy dữ liệu cũng như trong truyền thông giữa CPU và các thiết bị khác. RPI có thể được thiết lập trong khoảng 0.2 - 750ms.
Sau khi cấu hình cho các module trong hệ thống, chúng ta sẽ viết chương trình cho PLC dùng  ngôn ngữ  ladder. 
2. Lập trình cho PLC
Trước khi lập trình, hãy tìm hiểu một số thuật ngữ dùng trong phần mềm RSLogix5000. 
- Tag: Tags là một tên bằng chữ dùng để chỉ định một vùng nhớ nơi mà dữ liệu được cất giữ. Tags là một cơ cấu cơ sở dùng để chỉ định bộ nhớ, tham chiếu các dữ liệu và giám sát dữ liệu. Mỗi tag được chỉ định ít nhất 4 byte trong bộ nhớ. 
Tag được chia làm 4 loại là : Base, Alias, Produced và Consumed. Kiểu Base là kiểu cơ bản dựa trên các kiểu dữ liệu. Kiểu Alias là kiểu bí danh, dùng để đặt tên gợi nhớ cho các Tag kiểu cơ bản. Kiểu Produced và Consumed tương ứng là Tag truyền và Tag nhận, chỉ dùng khi cần trao đổi dữ liệu giữa các bộ điều khiển khác nhau.
Kiểu dữ liệu cho Tag rất phong phú gồm các kiểu cơ bản như : BOOL, INT, REAL … và các kiểu dữ liệu có cấu trúc. Các kiểu dữ liệu cấu trúc có thể do người lập trình tự định nghĩa. Bản thân RSLogix5000 cũng đã định nghĩa sắn rất nhiều kiểu dữ liệu cấu trúc rất tiện lợi cho việc lập trình các ứng dụng khác nhau.  
Tag có 2 mức phạm vi tác dụng là phạm vi bộ điều khiển, có tác dụng trong toàn bộ ứng dụng, được quản lý trong thẻ Controller Tags và phạm vi chương trình con, chỉ có tác dụng trong mỗi tác vụ, được quản lý trong thẻ Program Tags. Vì bộ nhớ chương trình của PLC có giới hạn nên hạn chế sử dụng Tag phạm vi bộ điều khiển khi không cần thiết.
- Rung:
 pac-rockwell-7
Hình 7 : Giao diện lập trình cho bộ điều khiển PLC
Mở thẻ MainRountine như hình 7 sẽ hiện lên giao diện lập trình cho PLC, mặc định là bằng ngôn ngữ Ladder. Ngôn ngữ Ladder thực hiện các lệnh logic dựa theo cấu trúc các bậc thang, mỗi bậc gọi là 1 RUNG được đánh số từ 0. Trên mỗi RUNG ta có thể thêm vào các phần tử lập trình như đầu I/O của PLC, các phần tử so sánh, tính toán, di chuyển số liệu, timer, counter … Bộ điều khiển sẽ kiểm tra phần tử bên trái, thường là các phần tử có điều kiện như kiểm tra đầu vào, bộ so sánh … và thực hiện  các phần tử bên phải, là các phần tử điều khiển, thực hiện tác vụ.  
- Vòng quét:  Để thực hiện chương trình lập trình cho PLC theo ngôn ngữ Ladder, PLC sẽ thực hiện vòng quét tuần tự từ trên xuống các RUNG cho tới RUNG cuối cùng là RUNG “End” thì quay lại thực hiện vòng quét từ RUNG 0. Vòng quét này gọi là vòng quét logic chính, hoàn toàn độc lập với vòng quét nhận dữ liệu đầu vào. Người lập trình cần chú ý tính toán thời gian cho một vòng quét cho phù hợp với tốc độ cập nhật dữ liệu mà ứng dụng mong muốn.
Sau khi đã tìm hiểu các khái niệm cơ bản cho việc lập trình ngôn ngữ hình thang, chúng ta sẽ bắt tay vào tìm hiểu cách lập trình và nạp chương trình cho PLC. Mở giao diện lập trình lên, chúng ta sẽ thấy thanh công cụ ngay trên giao diện lập trình. Thanh công cụ này chứa tất cả các phần tử cần để lập trình. Các phần tử này được bố trí vào các nhóm nhỏ như Favourites, Add-On, Alarms, Bit… Để đưa phần tử này vào các RUNG ta có thể click vào các phần tử hoặc kéo/thả phần tử vào vị trí mong muốn. Việc sử dụng các phần tử này như thế nào không thể nói chi tiết trong một bài báo. Tuy nhiên, có thể tìm hiểu logic của từng phần tử bằng cách chuột phải vào phần tử, chọn Instruction Help (hoặc nhấn F1).
pac-rockwell-8
Khi đã đưa các phần tử vào RUNG, cần phải gán phần tử cho 1 Tag. Click chuột phải vào dấu “?” chỉ tên phần tử và chọn New Tag. Chọn kiểu của Tag là Base nếu Tag dựa trên các kiểu dữ liệu. Chọn Alias nếu muốn Tag này đại diện cho một Tag nào đó đã có. Chú ý, các vùng đệm chứa giá trị các kênh I/O của các module PLC đã được mặc định gán cho các Tag có phạm vi bộ điều khiển và có thể dùng để gán cho các Tag Alias. Trong hộp thoại Select Data Type, có thể tạo Tag kiểu mảng 1, 2 hay 3 chiều bằng cách điền vào các ô trong mục Array Dimensions.
 pac-rockwell-9
Hình 8 : Gán Tag cho các phần tử Logic
Đó là cách tạo Tag thông qua các phần tử logic. Bạn cũng có thể tạo ra một Tag bất kỳ nhằm mục đích làm bộ đệm cho việc thu thập số liệu hoặc tính toán bằng cách chuột phải vào thẻ Controller Tags hoặc Program Tags (ứng với phạm vi Tag khác nhau), chọn New Tag và làm như trên.
Để thêm RUNG hoặc nhánh của RUNG, click chuột vào hai phần tử đầu tiên trên thanh công cụ. Các phần tử điều kiện đặt nối tiếp nhau trên cùng nhánh sẽ đại diện cho phép AND còn các phần tử điều kiện đặt trên những nhánh song song sẽ đại diện cho phép OR.
pac-rockwell-10
Hình 9 : Logic các phần tử trên RUNG
Như hình vẽ 9, ta có 4 Tag điều kiện a, b, c, d là Tag kiểm tra mức logic ON (mức 1) với kiểu dữ liệu BOOL. Trong đó, Tag a có kiểu Alias, đại diện cho bit dữ liệu 0 của module cắm trên khe cắm số 1 (một đầu vào DI). Với RUNG này, PLC sẽ kiểm tra logic của tổ hợp (a AND (b OR d) AND c). Nếu tổ hợp này có giá trị logic là 1 thì sẽ thực hiện việc bật Tag Q lên giá trị logic 1. 
Sau khi viết xong chương trình cho PLC, ta cần tải phần mềm này xuống PLC. Kết nối PLC với máy tính, bật PLC và chuyển khóa chế độ trên PLC sang vị trí PROG. Vào phần mềm RSLogix5000, chọn thẻ Communication  Who Active để chọn kết nối tới bộ điều khiển (CPU) cần lập trình.  Chú ý, chỉ bộ điều khiển nào đang kết nối về mặt tín hiệu điện với máy tính (không có dấu gạch chéo đỏ như hình 10)
 pac-rockwell-11
Hình 10 : Chọn bộ điều khiển để tải chương trình xuống
Sau khi chọn được bộ điều khiển, click vào nút Set Project Path rồi click vào nút Download. Khi việc tải chương trình xuống PLC hoàn thành, chuyển khóa chế độ sang vị trí RUN để PLC thực hiện chạy chương trình. Giao diện lập trình sẽ tự động chuyển sang chế độ Online, các phần tử logic sẽ được hiển thị giá trị đồng bộ với bộ điều khiển. Chúng ta có thể quan sát màn hình giao diện lập trình để debug chương trình điều khiển. Khi muốn chỉnh sửa lại chương trình, cần chuyển chế độ lập trình về trạng thái Offline bằng thanh công cụ Online Toolbar nằm góc trên, bên trái của giao diện lập trình.
 pac-rockwell-12
Hình 11: Thanh công cụ Online Toolbar
Một công cụ mạnh để Debug chương trình nữa là khả năng ép giá trị (Force). Dùng thanh Online Toolbar để bật/tắt chế độ này. Khi chế độ này được bật, các Tag có kiểu dữ liệu BOOL, SINT, INT, DINT, REAL hoặc các thành phần  của Tag ưcấu trúc có kiểu dữ liệu BOOL, SINT, INT, DINT, REAL đề có thể được ép tới giá trị mong muốn tới từng bit (kể cả Tag I/O và Tag Alias). Chương trình Logic sẽ sử dụng các giá trị được ép bất kể giá trị vật lý thực của nó bằng bao nhiêu. Tuy nhiên, đây chỉ là giá trị tạm để Debug, không nên dùng ép giá trị làm thành phần cố định trong một chương trình điều khiển.
III. Kết luận
Bộ phần mềm Rockwell Software là bộ phần mềm mạnh mẽ, linh hoạt. Ngoài việc lập trình cơ bản như đã trình bày trong bài này, bộ phần mềm của Rockwell còn rất mềm dẻo, tiện dụng trong việc truyền thông giữa các bộ điều khiển với nhau, cũng như việc lấy dữ liệu, truyền dữ liệu qua lại giữa PLC và máy tính, thuận tiện cho việc giám sát cũng như điều khiển hệ thống. Chúng ta sẽ bàn về vấn đề này trong những phần sau.

(theo: embedded)

Thứ Ba, 3 tháng 7, 2012

Những điều cần biết về vàng


Trữ lượng vàng trên thế giới đang ngày càng cạn kiệt trong khi chi phí tìm kiếm ngày càng cao. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng tài chính 2008 cũng đã đẩy lượng cung vàng lên mức cao nhất trong lịch sử.
Thái Dương
Theo TTVN

Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

Kỹ Năng Giao Tiếp

Khi nói đến phương pháp 5S là ta đề cập đến một danh sách gồm năm từ tiếng Nhật, những từ này được dịch sang tiếng Anh và cả tiếng Việt, bắt đầu với chữ S và đây là tên của một phương pháp luận nổi tiếng. Danh sách này là đề cập đến một phương pháp luận đặc trưng cho, nói một cách không chính xác lắm, “chuẩn hóa việc vệ sinh”, tuy nhiên phương pháp này nhiều hơn chỉ là “vệ sinh”. 5S là một triết học và một cách tổ chức và quản lý không gian làm việc và lưu trình tác nghiệp với chủ ý nhằm cải thiện hiệu quả bằng việc loại trừ sự tiêu phí, cải thiện lưu trình tác nghiệp và giảm bớt sự vô lý của quy trình.

Vậy 5S là gì?

5S là một phương pháp để tổ chức một nơi làm việc, đặc biệt là một nơi làm việc dùng chung (như một nhà xưởng hay một văn phòng), và giữ nơi đó một cách có tổ chức. Đôi khi 5S được xem như là một phương pháp luận cho công việc giữ vệ sinh, song sự đặc trưng này có thể không chính xác vì việc tổ chức một nơi làm việc hơn hẳn viện việc giữ vệ sinh

Mục đích chính của 5S là tạo tinh thần và hiệu quả cho nơi làm việc. Sự khẳng định của 5S, bằng việc sắp đặt mỗi thứ một sự vị trí, là không tiêu phí thời gian cho việc tìm kiếm những vật dụng cần thiết. Thêm vào đó, nó chỉ ra nhanh khi cái gì đó bị thiếu bằng những chỉ thị vị trí. Những người ủng hộ 5S tin tưởng lợi ích của phương pháp luận này đến từ việc quyết định cái gì cần phải bị giữ, nơi mà nó cần phải bị giữ, và nó cần phải được cất giữ ra sao. Quá trình ra quyết định này thông thường đến từ một thảo luận về sự tiêu chuẩn hóa nhằm xây dựng một sự hiểu biết rõ ràng, bởi các nhân viên, về việc các công việc cần được thực hiện như thế nào. Nó cũng phát huy tính làm chủ quá trình trong mỗi nhân viên.

Thêm vào đó, sự phân biệt quan trọng khác giữa 5S và “tiêu chuẩn hóa việc giữ vệ sinh” là Seiton. Seiton thường được hiểu lầm, có lẽ vì những cố gắng dịch nghĩa từ này sang tiếng Anh bằng từ bắt đầu với chữ “S” (đại loại như “Sort” hay “Straighten”). Khái niệm quan trọng ở đây là cần sắp xếp những mục hay những hoạt động theo một cách nhằm đẩy mạnh lưu trình tác nghiệp. Chẳng hạn, những công cụ cần phải được giữ nơi sử dụng, những công nhân không nên thường xuyên xoay người để lấy nguyên liệu, những lưu trình tác nghiệp có thể được biến đổi để cải thiện hiệu quả, …

5S bao gồm:

Giai đoạn1 – Seiri (整理) Sorting – Sàng Lọc: Kiểm tra tất cả công cụ, nguyên liệu, … trong nhà máy, khu vực làm việc và chỉ giữ những mục quan trọng. Mọi thứ khác được cất giữ hay vứt bỏ.

Giai đoạn 2 – Seiton (整頓) Straighten or Set in Order – Sắp xếp: Tập trung vào hiệu quả. Khi chúng tôi dịch điều này bằng “Straighten or Set in Order”, nó có vẻ thích hợp với sàng lọc hay quét dọn, nhưng thực ra chủ ý là sắp xếp công cụ, thiết bị và phụ tùng theo một cách đẩy mạnh lưu trình tác nghiệp. Chẳng hạn, những công cụ và thiết bị cần phải bị giữ nơi chúng sẽ được sử dụng (ví dụ đẩy mạnh lưu trình tác nghiệp), và quá trình cần phải được đặt trong một trật tự làm tối đa hiệu quả làm việc.

Giai đoạn 3 – Seisō (清掃) Sweeping – Sạch Sẽ: sự dọn dẹp một cách có hệ thống hay nhu cầu để giữ khu vực làm việc sạch sẽ và ngăn nắp. Hoạt động hằng ngày ở cuối mỗi ca, vùng làm việc được dọn dẹp và mọi thứ được trả lại chỗ của chúng. Ở đây, việc quan trọng là tạo điều kiện cho việc dễ dàng nhận biết vật gì nên mang đi đâu và đặt đâu. Điểm quan trọng trong việc duy trì sự sạch sẽ cần phải là một phần của công việc hằng ngày – không phải là hoạt động mà thỉnh thoảng mới làm và được bắt đầu khi mọi thứ đã trở nên quá lộn xộn.

Giai đoạn 4 – Seiketsu (清潔) Standardising – Săn Sóc: Tiêu chuẩn hóa những thực hành công việc hay hoạt động theo một cách đã được tiêu chuẩn hóa. Mọi người biết chính xác trách nhiệm của mình.

Giai đoạn5 – Shitsuke (躾) Sustaining – Sẵn Sàng: Đề cập đến duy trì và xem xét các tiêu chuẩn. Một khi 4S ở trên đã được thiết lập, chúng trở nên phương pháp mới để hoạt động, duy trì sự tập trung vào cách họat động và không cho phép việc dần dần trở lại như cách họat động cũ. Tuy nhiên, khi có một vấn đề xuất hiện ví dụ như một sự cải tiến được gợi ý hay một cách làm việc mới, hay một công cụ mới, hay một yêu cầu đầu ra mới thì cần xem xét lại 4S đầu tiên một cách phù hợp.

Mối quan hệ với các khái niệm khác

5S được sử dụng với những khái niệm Lean (Lean Manufacturing) khác như SMED (Single Minute Exchange of Die), TPM (Total Productive Maintenance) và Just-In-Time (JIT). Những nguyên tắc 5S yêu cầu loại bỏ những thứ không cần đển nhằm làm cho việc lấy dụng cụ và phụ tùng nhanh chóng và dễ dàng hơn. Đây là nền tảng của SMED, nhằm tạo điều kiện cho JIT. Bước đầu tiên ở TPM là thao tác dọn dẹp máy móc, cơ bản của 5S. Masaaki Imai (một nhà tư vấn Nhật Bản về quản trị chất lượng) cũng đã đề cập việc sử dụng chiến lược 5S trong cuốn sách về Kaizen của ông.

Nguyên tắc áp dụng 5S trong một tổ chức 

Thực hành 5S là một chương trình đòi hỏi sự tham gia của tất cả mọi người trong tổ chức/doanh nghiệp. Đây là một phương pháp hiệu quả để huy động con người, cải tiến môi trường làm việc và nâng cao năng suất. 

Nguyên tắc của Thực hành 5S hết sức đơn giản, không đòi hỏi phải dùng các thuật ngữ hay phương pháp phức tạp nào trong quá trình thực hiện. Thành công trong thực hành sẽ giúp các tổ chức/doanh nghiệp đạt được năng suất cao hơn thông qua: 

Xây dựng một môi trường sạch sẽ, ngăn nắp 
  
Mọi người trong cũng như ngoài công ty dễ dàng nhận thấy rõ kết quả 

Tăng cường phát huy sáng kiến 

Nâng cao ý thức kỷ luật trong cơ quan 

Chỗ làm việc trở nên thuận tiện và an toàn 

Cán bộ công nhân viên tự hào về nơi làm việc 

Xây dựng hình ảnh chức/doanh nghiệp, đem lại cơ hội trong kinh doanh… 

Các yếu tố cơ bản để thực hiện thành công chương trình thực hành 5S 

Cũng như đối với việc áp dụng công cụ nâng cao năng suất chất lượng, việc áp dụng Thực hành 5S đòi hỏi sự cam kết và ủng hộ của Lãnh đạo cao nhất thông qua việc chỉ đạo thực hiện, tập trung nguồn lực, kinh phí và thời gian.. 

Đào tạo và hướng dẫn mọi cán bộ nhân viên trong tổ chức/công ty hiểu rõ mục tiêu, ý nghĩa cũng như phương pháp để thực hiện. Từ đó mỗi phòng ban/phân xưởng có thể chủ động đưa ra kế hoạch thực hiện tại đơn vị của mình 

Sự tham gia của tất cả mọi người – Bí quyết thành công của chương trình thực hành 5S là tạo một môi trường khuyến khích mọi người tích cực tham gia, phát huy sáng kiến và duy trì môi trường làm việc sạch sẽ, thuận lợi và an toàn 

Duy trì và cải tiến không ngừng, tạo nên một nguyên tắc hoạt động trong tổ chức/doanh nghiệp để đảm bảo tính hiệu quả trong quản lý và kinh doanh 

Thực hành 5S có thể áp dụng tại bất kỳ Phòng, Ban PX nào

Các bước triển khai thực hành 5S tại Doanh nghiệp

Để triển khai thực hiện 5S, tổ chức/doanh nghiệp có thể thực hiện theo các bước như sau: 

Thành lập Ban chỉ đạo và xây dựng kế hoạch thực hiện 

Trước hết, tổ chức cần xác định mục tiêu của dự án 5S và thành lập ban chỉ đạo 5S. Ban chỉ đạo thông thường gồm có các thành viên trong ban Lãnh đạo công ty, đại diện từ các phòng ban và là những người có uy tín và ảnh hưởng tới nhân viên trong các phòng ban. Thông thường, ban chỉ đạo 5S có thể chia thành 3 nhóm để thực hiện các chức năng: Quảng bá về 5S, Đào tạo 5S và Đánh giá 5S. 

Các thành viên trong ban chỉ đạo 5S cần hiểu nắm rõ vai trò trách nhiệm của mình, hiểu rõ các nguyên tắc 5S để có thể truyền đạt cho các cán bộ nhân viên trong tổ chức của mình. 

Cũng như việc áp dụng hệ thống chất lượng, vai trò của lãnh đạo là yếu tố quan trọng để dẫn đến thành công. Đối với việc thực hiện 5S cũng vậy, cam kết của lãnh đạo cần được thể hiện ngay từ giai đoạn ra quyết định, sau đó tới việc cung cấp các nguồn lực cần thiết để thực hiện cũng như duy trì trong tương lai 

Thông báo chính thức của Ban lãnh đạo và các hoạt động tuyên truyền quảng bá về 5S trong công ty 

Chính sách và mục tiêu áp dụng 5S cần được thông báo tới toàn tổ chức. Thông thường ban lãnh đạo sẽ đưa ra quyết định chính thức việc áp dụng 5 S cũng như quyết định thành lập Ban chỉ đạo. Từ đó sẽ có các nhóm 5S tại các bộ phận/phòng ban được hình thành nhằm triển khai một cách có hiệu quả tại từng đơn vị. Các nhóm 5S sẽ chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện tại đơn vị của mình và làm nòng cốt để thúc đẩy phong trào thực hiện và thi đua. 

Tổ chức cũng cần thực hiện việc đào tạo nội bộ về khái niệm cũng như yêu cầu của 5S. Có thể mời chuyên gia hoặc giảng viên bên ngoài nếu cần thiết. 

Các hoạt động tuyên truyền quảng bá thường được thực hiện thông qua các biểu ngữ, pa nô, áp phích. 

Tổ chức ngày tổng vệ sinh trong toàn tổ chức 

Đây là phương thức hữu hiệu để bắt đầu cho một chương trình 5S. Tất cả các cán bộ nhân viên từ cấp cao nhất sẽ tham gia. Để thực hiện ngay tổng vệ sinh có hiệu quả, Ban chỉ đạo thực hiện 5S cần đưa ra những phân công cụ thể cũng như cung cấp các dụng cụ vệ sinh cần thiết để tiến hành vệ sinh, chuẩn bị kho, giá, tủ để sắp xếp và chứa những đồ vật sau khi tiến hành sàng lọc. 

Các tổ chức nên duy trì việc tổng vệ sinh 2 lần trong 1 năm 

- Thực hiện bước “SÀNG LỌC” 

Để thực hiện bước “Sàng lọc”, mỗi bộ phận/đơn vị cần đưa ra các tiêu chí để xác định những loại vật dụng/tài liệu/hồ sơ nào cần loại bỏ. Sau bước sàng lọc sơ bộ, có thể phân loại các vật dụng thành những loại như sau: 

Những vật dụng/tài liệu sử dụng thường xuyên cần được để thuận tiện cho việc sử dụng và dễ dàng 

Những vật dụng không thường xuyên được lưu giữ ở những nơi thích hợp, có chỉ dẫn và nhận biết thích hợp để có thể lấy được khi cần sử dụng 

Những vật dụng không cần thiết cũng cần được để riêng và phân loại để xử lý 

- Thực hiện bước “SẮP XẾP” 

Dựa trên nguyên tắc này, từng bộ phận/phòng ban cần thống nhất trong nội bộ hình thức sắp xếp các đồ vật, máy móc, tài liệu sao cho mọi thứ có thể dễ dàng sử dụng. 

Các đồ vật nên sắp xếp theo thứ tự ưu tiên có dán nhãn và đánh số nếu cần thiết để có thể dễ dàng nhận biết. 

- Thực hiện bước “SẠCH SẼ” 

Việc thực hiện vệ sinh được thực hiện qua ngày tổng vệ sinh cũng như lịch làm vệ sinh hàng ngày tại nơi làm việc. Luôn kiểm tra để bàn làm việc, máy móc, sàn nhà sạch sẽ, không bị bụi bẩn. Tốt nhất là dành thời gian từ 5 đến 10 phút để làm vệ sinh trước và sau giờ làm việc, tạo thói quen ngăn nắp và sạch sẽ. 

- Thực hiện bước “SĂN SÓC” 

Yêu cầu của bước này là thực hiện đúng theo qui định các hoạt động Serri – Seiton – Seiso. Nơi làm việc nhờ vậy sẽ trở nên sạch sẽ và ngăn nắp. Để duy trì và nâng cao 5S, nên sử dụng các phương pháp hiệu quả như sau: 

Tiêu chuẩn hoá việc thực hiện 5S trong tổ chức để duy trì kỷ luật 

Tiến hành hoạt động đánh giá 5S 

Tạo sự thi đua giữa các bộ phận/phòng ban 

- Thực hiện bước “SẴN SÀNG” 

Việc thực hiện các bước trên một cách tự giác và tạo thành thói quen cũng như văn hoá của toàn tổ chức. Khi đó chúng ta đã đạt được bước Sẵn sàng 

Để đạt được điều này, người phụ trách từng bộ phận, phòng ban cần gương mẫu và đi đầu trong việc thực hiện 5S. Mọi nhân viên tuân thủ các qui định chung, thực hiện tự giác và coi nơi làm việc như ngôi nhà chung. Việc rèn luyện ý thức tự giác cần phải có thời gian và cố gắng của mọi thành viên trong tổ chức. 

Kỹ thuật đánh giá thực hành 5S tại doanh nghiệp 

Một trong những hoạt động quan trọng góp phần vào việc duy trì và cải tiến hoạt động 5S là Đánh giá 5S. Đánh giá định kỳ 5S là hoạt động có ý nghĩa khuyến khích các hoạt động 5S. Mục đích chính của việc đánh giá là: 

- Xem xét hiệu lực và hiệu quả của hoạt động 5S 

- Đánh giá khía cạnh tích cực của việc thực hiện 5S 

- Kịp thời động viên các cá nhân, đơn vị hoàn thành tốt công việc và nhân rộng sáng kiến 

- Phát hiện những khu vực hạn chế trong việc thực hiện để có những cải tiến thích hợp 

Để có thể thực hiện công tác đánh giá 5S, công ty/tổ chức cần có một đội ngũ cán bộ đảm nhiệm vai trò là các chuyên gia đánh giá. Các chuyên gia đánh giá cần được đào tạo về kỹ năng đánh giá, các yêu cầu của thực hành 5S, cách thức tiến hành đánh giá, lập báo cáo… Các yêu cầu đối với một chuyên gia đánh giá bao gồm: 

Hiểu được ý nghĩa và các hoạt động 5S 

Nắm được các nội dung và yêu cầu của thực hành 5S 

Nắm rõ các qui định, nội qui của công ty về hoạt động 5S 

Hiểu được cách thức đánh giá cũng như các tiêu chí đánh giá cho từng khu vực/bộ phận 

Nhiệm vụ của nhóm chuyên gia đánh giá là lên kế hoạch đánh giá định kỳ, xây dựng các tiêu chí đánh giá cho từng khu vực, phòng ban, chuẩn bị các nguồn lực và thời gian cần thiết để tiến hành đánh giá. Một trong những phương pháp quan trọng nhất trong đánh giá 5S là sử dụng những hình ảnh trực quan, thông qua việc chụp ảnh những khu vực được đánh giá. Đây cũng chính là cách để cung cấp những bằng chứng khách quan khi đưa ra những kết luận, kiến nghị và là cơ sở để theo dõi và so sánh quá trình cải tiến sau này. 

Bằng cách quan sát và phỏng vấn, các chuyên gia đánh giá tập trung vào các nội dung trọng tâm như sau: 

Ban lãnh đạo công ty và các cán bộ quản lý có hỗ trợ cho chương trình 5S hay không? 

Mọi người có tự hào về nơi làm việc của mình hay không? 

Nơi làm việc có sạch sẽ và ngăn nắp không? 

Nơi làm việc có an toàn không? 

Máy móc và thiết bị có được vệ sinh và bảo dưỡng không? 

Mọi thứ có được sắp xếp hợp lý để dễ tìm và dễ lấy hay không? 

Máy móc và các vật dụng có được đặt ở nơi thuận tiện cho người sử dụng không? 

Các hồ sơ có được lưu giữ để dễ truy tìm không? 

Các đồ vật có đảm bảo sạch sẽ không 

Mọi người có làm vệ sinh hàng ngày một cách tự giác không? 

Các cán bộ nhân viên có mặc đồng phục/quần áo sạch sẽ, gọn gàng theo qui định hay không? 

Mọi người có ý thức về việc tạo và giữ gìn hình ảnh tốt đẹp của công ty/tổ chức của mình không? 

Đối với mỗi phòng ban/bộ phận được đánh giá, nhóm chuyên gia đánh giá lập danh mục/bảng hỏi đánh giá, thang điểm và cách thức chấm điểm. Thang điểm đánh giá có thể từ 1-5 hoặc từ 1-10. Cách cho điểm đánh giá thường được qui định theo mức độ áp dụng 5S tại từng bộ phận và kết quả đạt được

Mỗi chuyên gia đánh giá sẽ cho điểm theo danh mục câu hỏi và dựa trên thang điểm đã được thống nhất. Tổng số điểm đạt được tại mỗi phòng ban/bộ phận được đánh giá sẽ được so sánh với nhau và với điểm tối đa có thể đạt được. Trên cơ sở đó nhóm chuyên gia đánh giá đưa ra những khuyến nghị cải tiến, đề xuất thưởng đối với những đơn thực hiện tốt. 

Việc thực hiện 5S chỉ có thể đạt kết quả tốt khi có sự tham gia của tất cả cán bộ nhân viên trong tổ chức. Bí quyết đem lại thành công trong việc huy động nguồn nhân lực cũng là yếu tố tạo nên năng suất và chất lượng của doanh nghiệp.

Những phẩm chất giúp con người thành công







1. Khao khát
Niềm khao khát cháy bỏng muốn đạt được mục đích là động lực mạnh mẽ đưa con người tới thành công. Napoleon Hill từng viết: “Bất cứ điều gì tâm trí con người có thể hình dung và tin tưởng thì điều đó có thể thực hiện được”.


Một thanh niên hỏi Socrates về bí quyết thành công. Socrates bảo chàng trai sáng mai đến tìm ông gần dòng sông trong thành phố. Khi họ gặp nhau, Socrates bảo người thanh niên đi dọc bờ sông với ông. Tới chỗ nước sâu, nhân lúc chàng trai sơ ý, Socrates xô cậu ta xuống nước. Cậu ta vùng vẫy cố ngoi lên nhưng Socrates khoẻ hơn và ghìm cậu xuống. Tới khi cậu tím tái cả mặt, Socrates mới nâng đầu cậu khỏi mặt nước. Việc đầu tiên cậu làm là há miệng thở một hơi thật sâu. Socrates mới hỏi: “Vừa rồi khi ở dưới nước, anh muốn điều gì nhất?” Cậu ta đáp: “Không khí”. Socrates mới bảo: “Đó chính là bí quyết thành công. Khi anh mong muốn thành công mạnh mẽ như anh muốn có không khí lúc ở dưới nước thì anh sẽ có được nó ngay thôi. Chẳng có bí quyết nào khác cả”. 

Khao khát cháy bỏng là điểm khởi đầu cho mọi thành tựu. Một đốm lửa nhỏ không thể toả nhiều nhiệt lượng; cũng vậy, một khao khát yếu ớt chẳng bao giờ đưa đến kết quả lớn lao.

 Trích Bí quyết của người chiến thắng – Shiv Kher

2. Sự cam kết

“Đừng cố làm người thành công mà hãy gắng trở thành người có giá trị.”
-       Albert Einstein -
Sự chính trực và thông tuệ là hai cột trụ chính chống đỡ và duy trì sự cam kết. Một nhà quản lý từng khuyên nhân viên của mình  rằng: “Chính trực là duy trì cam kết của bản thân dù phải tốn kém bao nhiêu chăng nữa, còn thông tuệ  là đừng bao giờ tạo ra những cam kết ngốc nghếch như vậy”.

Thịnh vượng hay thành công đều là kết quả của tư duy và lựa chọn của con người. Lựa chọn suy nghĩ nào sẽ chi phối cuộc đời mình cũng là vì chính bản thân mình. Thành công không phải là chuyện ngẫu nhiên mà là kết quả của thái độ sống.

Phải có sự cam kết mới đạt được thành công

Giữa chơi để thắng và chơi để đừng thua có sự khác biệt lớn. Khi chơi để thắng, ta vào trận với sự nhiệt tình và quyết tâm cao độ; trong khi đó chơi để đừng thua nghĩa là chơi để tránh thất bại và đang ở vào vị trí yếu thế. Ai cũng muốn chiến thắng nhưng rất ít người chuẩn bị tâm lí sẵn sàng trả giá cho chiến thắng ấy. Người chiến thắng tạo dựng môi trường cho mình và cam kết nỗ lực vì chiến thắng. Chơi để thắng xuất phát từ cảm hứng, trong khi đó chơi để đừng thua xuất phát từ sự tuyệt vọng.

Chẳng có môi trường sống nào tuyệt đối lý tưởng. Để đạt được mục đích trong đời, bạn không thể phó mặc số phận hoặc cứ neo đậu một chỗ. Có khi bạn phải nương theo gió và có khi đi ngược hướng gió, nhưng dù theo hướng nào chăng nữa bạn đều phải giương buồm lên.

Bạn thử hỏi huấn luyện viên hoặc vận động viên thể thao xem sự khác biệt giữa đội chơi hay và đội chơi dở là gì. Chắc chắn, họ sẽ trả lời cho bạn rằng, sự khác biệt ấy không nằm ở thể chất, năng khiếu, hay khả năng, mà nằm ở tinh thần thi đấu. Đội chiến thắng có sự quyết tâm và nỗ lực hết mình. Khao khát chiến thắng của họ lớn hơn. Với họ, thi đấu càng gian khó thì:

  • Tinh thần càng được khích lệ
  • Động cơ càng lớn
  • Thành tích càng cao
  • Thắng lợi càng ngọt ngào

Thử thách giúp phát huy tiềm năng. Hầu hết vận động viên đều đạt thành tích tốt nhất khi gặp nhiều vấn đề bất lợi. Khi ấy, họ phải cậy đến sức mạnh tinh thần dự trữ của mình.

“Khi mệt mỏi và muốn ngừng lại, tôi thường tự hỏi không biết đối thủ sắp tới của mình lúc này đang làm gì. Chỉ cần hình dung rằng họ vẫn đang tập luyện, tôi liền tự nhủ mình cần phải cố lên. Khi nghĩ họ đang tắm táp nghỉ ngơi, tôi lại phải càng khổ luyện hơn nữa.”
-Dan Gable- VĐV đấu vật, HCV Olympic

Ý nghĩa thành công không nằm ở thành tích đạt được mà ở việc đạt được thành tích ấy. Có những người không bao giờ cố gắng vì sợ thất bại. Cùng lúc, họ không muốn sống với vị trí hiện tại vì sợ mình bị tụt hậu. Đường nào cũng tiềm ẩn nguy cơ. Chuyến tàu ra khơi cũng là chuyến tàu đối mặt với nguy cơ gặp giông bão, nhưng nếu cứ neo trong cảng, nó sẽ bị gỉ sét. Chơi vì chiến thắng khác với chơi để đừng thua ở chỗ sự quyết tâm luôn đi đôi với việc đối mặt nguy cơ. Người chơi để thắng thành công trong áp lực còn người chơi để đừng thua không biết cách thành công.

Áp lực khiến người chơi vì chiến thắng phải chuẩn bị tốt hơn. Với người chơi để đừng thua, áp lực làm họ hao mòn dần sinh lực. Họ muốn chiến thắng, nhưng lại sợ thua đến nỗi không thể phát huy hết tiềm năng của mình. Họ tiêu hao sinh lực vì lo lắng thua cuộc thay vì tập trung vào nỗ lực giành chiến thắng.

Người thua cuộc chỉ muốn được yên phận; người chiến thắng tìm kiếm cơ hội.

Thất bại không có lỗi mà thiếu nỗ lực mới chính là có lỗi với bản thân.

Niềm tin đưa đến cam kết nỗ lực

Ưu tiên và niền tin khác nhau. Trái với ưu tiên, ở niềm tin không có sự thương lượng. Ưu tiên phải nhường bước trước áp lực; còn niềm tin lại mạnh mẽ hơn nhiều. Điều này lí giải tại sao phải có một hệ thống giá trị nhân phẩm tốt đẹp làm nền tảng cho niềm tin của mình, bởi niềm tin sẽ dẫn đến sự cam kết nỗ lực.

 Trích Bí quyết của người chiến thắng – Shiv Khera

3.Trách nhiệm
“Khi bổn phận trở thành niềm đam mê, nó sẽ đem đến hạnh phúc”
- George Gritter -
Người có nghị lực biết nhận trách nhiệm. Họ quyết đoán và tự tạo nên số phận cho chính mình. Gánh vác trách nhiệm buộc họ phải chấp nhận liều lĩnh và biết lý giải hành động của mình.

Có những người thà an phận trong mội trường quen thuộc còn hơn phải gánh vác trách nhiệm. Họ thụ động chờ thành công đến thay vì chủ động biến điều đó thành hiện thực. Gánh vác trách nhiệm đòi hỏi phải biết liều lĩnh một cách có tính toán chứ không phải dại dột. Nghĩa là biết nhìn nhận tất cả lợi hại rồi định ra kế sách hay hành động thích hợp nhất. Người có trách nhiệm không cho rằng cuộc đời mình là do số trời định đoạt.

Không thể giàu sang nếu không biết tằn tiện.

Không thể khiến kẻ yếu mạnh lên bằng cách làm suy yếu người mạnh

Không thể giúp người nghèo giàu lên bằng cách lấy của người giàu chia cho người nghèo

Không thể thiết lập sự an toàn bền vững bằng đồng tiền vay mượn

Không thể giúp người làm công ăn lương bằng cách khiến người chủ sụp đổ

Không thể xây dựng nghị lực và can đảm bằng cách chiếm đoạt sáng kiến và sự độc lập của người khác

Không thể truyền bá tình anh em bằng cách kích động lòng thù hận

Không thể tránh rắc rối bằng việc tiêu xài phung phí

Không thể giúp đỡ người khác về lâu dài bằng cách làm giúp những gì họ có thể và nên làm cho chính mình
- Abraham Lincoln -

Khi leo lên núi băng hay tham gia chiến đấu, chỉ cần một sai lầm nhỏ cũng đủ khiến bạn mất mạng . Tuy nhiên, phản ứng như thế nào trước lỗi lầm của bản thân quan trọng hơn việc phạm lỗi. Người có trách nhiệm biết nhận lỗi và rút kinh nghiệm từ lỗi lầm của bản thân

Ba cách ứng xử thường gặp sau khi phạm lỗi là:
  • Phớt lờ
  • Phủ nhận
  • Nhận lỗi, rút kinh nghiệm và không lặp lại sai phạm đó

Phương án thứ ba đòi hỏi phải có lòng can đảm, cũng nhiều mạo hiểm nhưng có giá trị hơn nhiều. Ngược lại, nếu chọ hai phương án đầu, chẳng khác nào chúng ta bảo thủ, biện minh cho điểm yếu của bản thân. Và như vậy, mãi mãi chúng ta sẽ chẳng thể nào tiến bộ được

Tại tiệc liên hoan chia tay, trước khi về hưu, vị chủ tịch của một tập đoàn nọ tặng hai phong bì có đánh dấu số 1 và 2 cho người kế nhiệm và bảo:” Mỗi khi anh gặp vấn đề quản lý gì đó không tự giả quyết được, hãy mở phong bì số 1 ra xem. Lần sau, lại mở tiếp phong bì số 2”.

Vài năm sau, công ty xảy ra chuyện nghiêm trọng. Chủ tịch mở két sắt lấy ra phong bì số 1. Nôi dung thư như sau: “ Cứ đổ lỗi cho người tiền nhiệm”. Mấy năm sau cũng gặp chuyện rắc rối, ông tìm chiếc phong bì số 2, chỉ thấy vẻn vẹn một dòng chữ: “ Hãy chuẩn bị hai phong bì cho người sắp kế nhiệm”.

 Trích Bí quyết của người chiến thắng – Shiv Khera

4. Sự nỗ lực
“May mắn ư? Tôi không biết may mắn là gì cả. Tôi chưa bao giờ trông chờ điều đó, thậm chí còn ngại tiếp xúc với những người gặp may. Với tôi chỉ có sự nỗ lực và nhận biết cái gì là cơ hội cho mình, cái gì là không.”
                                                                                          - Lucille Ball -
Ai cũng thích chiến thắng, nhưng không phải ai cũng nỗ lực và đầu tư thời gian chuẩn bị giành thắng lợi.

Điều đó đòi hỏi sự hy sinh và kỷ luật tự giác. Không có gì thay thế được sự nỗ lực. Henry Ford từng nói: “Càng nỗ lực làm việc, càng may mắn hơn nhiều”. 
Trong cuộc sống, rất nhiều người có tinh thần lao động cao. Và với những người này, nhà tuyển dụng sẵn sàng mở rộng cửa chào đón họ. 
Ta không thể học đánh vần nếu cứ ngồi lên quyển từ điển, cũng không thể phát huy khả năng nào đó nếu không nỗ lực. Người chuyên nghiệp làm việc trôi chảy bởi họ nắm vững quy tắc của bất kỳ công việc nào cần làm. 
Người trung bình dành 25% năng lượng và khả năng cho công việc. Thật đáng trân trọng với những ai biết đầu tư hơn 50 % năng lực của mình, và thật sửng sốt trước những người đôi khi đầu tư 100% nỗ lực và khả năng của bản thân.
- Andrew Carnegie -
Người thành công hỏi về mức độ công việc nhiều chứ không phải ít như thế nào. Họ quan tâm làm việc nhiều giờ chứ không giảm bớt. Nhạc công giỏi thường luyện đàn nhiều tiếng liền hàng ngày. Người thành công không cần phải giải thích cho thành tích đạt được vì họ đã vất vả, nỗ lực trong một thời gian dài. 
Mọi thứ chúng ta tận hưởng đều là thành quả nỗ lực của người khác. Có khi ta nhìn thấy, cũng có khi không, nhưng hết thảy đều quan trọng. Vì vậy, hãy tự hào với công sức của mình và mỗi khi có dịp, hãy cảm kích sự khó nhọc của người khác qua cách đối xử tôn trọng, chu đáo. Nỗ lực và làm tốt, bạn sẽ được nếm trải cảm giác thỏa mãn khi nhìn thấy thành quả của mình. Đôi khi người khác cũng cảm kích thành quả ấy, nhưng phần lớn nhất vẫn là sự mãn nguyện của bản thân. 
Có người ngừng làm ngay khi tìm được công việc. Họ không hiểu ăn không ngồi rồi và rảnh rỗi khác nhau như thế nào. Thừa thời gian mà không làm gì tức là lãng phí hoặc ảnh hưởng thời gian người khác. Sự lười nhác sẽ rút dần sinh khí và nhiệt tình của con người. Trái lại, khi làm việc hết mình và phải tranh thủ thời gian rảnh rỗi để nghỉ ngơi tăng thêm sinh lực, người ta sẽ cảm thấy sảng khoái và mãn nguyện hơn. 
Sự vượt trội không phải do may mắn mà là thành quả của rất nhiều nỗ lực và luyện tập. Nỗ lực và luyện tập khiến cho con người ngày càng thạo hơn trong bất kỳ việc gì mình làm. 
Bản thân sự nỗ lực vừa là khởi đầu vừa là kết thúc của hành trình. Càng chăm chỉ làm việc, người ta càng cảm thấy thoải mái hơn; càng thoải mái hơn họ càng chăm chỉ hơn. Ý tưởng hay nhất cũng vô dụng nếu nó không được ứng dụng vào thực tiễn. Có tài mà thiếu ý chí sẽ chẳng làm nên điều gì. 
Có lần Fritz Kreisler- một nghệ sỹ violin lỗi lạc vừa chơi xong bản nhạc, một khán giả lên sân khấu và ngưỡng mộ bảo: “Tôi sẵn sàng đánh đổi cả đời mình để có thể chơi nhạc như ngài”. Nghệ sỹ đáp: “ Thì tôi đã làm như vậy đấy!”. 
Thực tế, thành công chỉ đến với người hành động chứ không phải người đứng nhìn. Ngựa bận kéo hàng sẽ không thể nào vung chân đá; ngựa đá lại không biết kéo hàng. Hãy nỗ lực vì cuộc sống thay vì sao nhãng mục đích cần đạt được. Không có nỗ lực, sẽ không có thành công. 
Thiên nhiên ban cho loài chim thức ăn nhưng không để sẵn trong tổ. Chúng phải bay đi tìm mồi. Chẳng có gì đến một cách đễ dàng cả. Hàng ngày nhà văn Milton phải dậy từ lúc 4h sáng để hoàn thành kiệt tác Paradise Lost (Thiên đường đánh mất). Noah Webster phải mất ròng rã 36 năm mới soạn xong bộ từ điển Webster. 
Thậm chí thành quả nhỏ nhặt nhất cũng cần chúng ta phải nỗ lực. Và dù thành tích nhỏ bé đến đâu chăng nữa vẫn tốt hơn lời lẽ đao to búa lớn. 
 Trích Bí quyết của người chiến thắng – Shiv Khera

5. Tư cách
Tư cách bao quát tất cả các giá trị, niềm tin và nhân phẩm con người. Nó phản ánh qua cách cư xử, hành động và cần phải được giữ gìn hơn bất kỳ thứ châu báu quý giá nào trên đời.  Làm người thành công phải có tư cách. George Washington từng nói: “Hy vọng tôi sẽ luôn có sự kiên định và phẩm chất để giữ vững điều tôi cho là quý giá nhất trong mọi danh hiệu được ban cho con người, đó chính là tư cách của một người chân chính”.
Kết quả bỏ phiếu hay công luận không quyết định tiến trình lịch sử mà chính tư cách của nhà lãnh đạo mới quyết định điều đó. Đường tới thành công luôn có nhiều cạm bẫy, vì vậy mỗi người cần giữ tư cách và đừng để mình sa ngã. Bên cạnh đó cần phải giữ vững lập trường để không nản lòng trước những lời lẽ chỉ trích, phê phán.
Tại sao người ta đều thích thành công nhưng lại ghét người thành công? Mỗi khi có ai đó vươn lên, họ lại tìm cách kéo người đó xuống. Điều này dường như đã trở thành một quy luật của cuộc sống. Trong bất kỳ nghề nghiệp nào, người thành công đều khó tránh khỏi con mắt ghen tỵ của những kẻ hẹp hòi. Không ít kẻ luôn thích chĩa mũi dùi công kích. Họ chính là người có thành quả kém cỏi nhưng lại thích lên giọng chỉ bảo, quát nạt người khác. Đối với những người này, không nên để họ làm bạn mất tập trung, xao nhãng mục tiêu. Càng đạt được nhiều thành tích, bạn sẽ càng phải đối diện với nhiều lời chỉ trích soi mói.
Chẳng ai thích bị phê bình, nhưng với những lời phê bình chân thật, ta có thể học hỏi được rất nhiều điều. Vì vậy, hãy giữ cho mình bản lĩnh để không nản lòng trước những lời chỉ trích, đồng thời phải biết lắng nghe và rút kinh nghiệm. Quan trọng hơn nữa, cần phải biết phân biệt đâu là lời phê bình chân thật và đâu là lời phê bình do ghen tị. Đó cũng là chìa khóa giúp ta thành công.
Như bao người khác, người thành công không thích bị chỉ trích, nhưng trước những lời phê bình có giá trị, họ biết bình tĩnh, tự chủ và chăm chú lắng nghe. Họ xin lời khuyên để cải thiện tình hình.
Tư cách là sự kết hợp của nhiều yếu tố
Tư cách là sự kết hợp giữa chính trực, vị tha, hiểu biết, niềm tin, can đảm, trung thành và tôn trọng. Người có tính cách lạc quan và giàu nghị lực thường:
  • Điềm tĩnh
  • Đĩnh đạc
  • Vững vàng, tự tin nhưng không ngạo mạn
  • Chu đáo
  • Không bao giờ viện cớ
  • Biết bỏ qua chuyện nhỏ nhặt vì sự nhã nhặn và cư xử lịch thiệp
  • Rút kinh nghiệm sai lầm quá khứ
  • Không ỷ vào tiền bạc hay dòng dõi
  • Không bao giờ tiến thân bằng cách chà đạp người khác
  • Biết nhìn vào bản chất, chứ không phải hình thức
  • Sánh bước cùng giới thượng lưu nhưng vẫn giữ được phong cách giao tiếp đại chúng
  • Lời nói dịu dàng, nụ cười đôn hậu
  • Thoải mái với chính mình và người khác
  • Giữ được phong cách tạo lợi thế chiến thắng
  • Làm nên những điều kỳ diệu trong cuộc sống
  • Đạt được thành tích phi thường
  • Biết nhận trách nhiệm
  • Khiêm tốn
  • Giữ được bản lĩnh khi thành công cũng như khi thất bại
  • Không gây sự khó chịu
  • Tao nhã, lịch sự, không quỵ lụy
  • Thể hiện đẳng cấp nhưng không tự phụ, vênh váo
  • Có tính kỷ luật tự giác
  • Độc lập
  • Lịch thiệp trong chiến thắng và hiểu biết khi thất bại

Khó hơn cả thành công chính là xử lý thành công ấy như thế nào. Nhiều người biết cách đạt được thành công, nhưng lại không biết cách xử trí với thành quả ấy như thế nào. Qua đấy để thấy rằng năng lực cần đi đôi với tư cách. Năng lực giúp bạn đạt được thành công; tư cách giúp bạn duy trì thành công ấy.
Ta không chứng tỏ hay khám phá bản thân mà là sáng tạo và phát triển con người mình theo mẫu hình mong muốn.
Người làm vườn phải liên tục nhổ cỏ để ngăn cỏ dại không ăn hết dưỡng chất và ảnh hưởng cây cối trong vườn, tương tự, tư cách cần vun đắp từ thủa ấu thơ cho đến lúc lìa đời. Hãy liên tục xây dựng và phát huy tư cách bằng cách loại bỏ những lỗi lầm của mình.
Nghịch cảnh tạo nên/thể hiện tư cách
Trước sóng gió, có người bứt phá ngoạn mục, lại có người suy sụp. John F.Kennedy từng nói rằng dấu ấn của tư cách thể hiện khi người ta hành xử hiệu quả trước những khó khăn. Khi mọi chuyện tiến triển tốt đẹp, việc thể hiện tư duy logic, tác phong đĩnh đạc và lịch thiệp là chuyện hết sức bình thường. Nhưng ngược lại, nếu nảy sinh vấn đề và bản thân phải chịu nhiều áp lực, không phải ai cũng có thể suy nghĩ sáng suốt và đối xử với người khác trân trọng. Do đó, có thể nói rằng nghịch cảnh cho thấy tư cách của con người.

 Trích Bí quyết của người chiến thắng – Shiv Khera

6. Niềm tin tích cực
Tư duy tích cực và niềm tin tích cực khác nhau thế nào? Nếu biết lắng nghe tiếng nói của lòng mình, ta sẽ có được điều gì? Đó là suy nghĩ tích cực hay tiêu cực? Bạn đang lập trình tư duy của mình vì mục tiêu chiến thắng hay thất bại? Cách nghĩ chi phối rất nhiều đến cách thể hiện và thành tích của bạn.

Thái độ tích cực và động cơ hành động là sự chọn lựa ta nên đề ra mỗi ngày. Không dễ sống cuộc đời tích cực; nhưng cuộc đời tiêu cực cũng không dễ dàng. Tư duy tích cực giúp bạn phát huy tối đa khả năng bản thân.
Niềm tin tích cực không đơn thuần là tư duy tích cực mà là thái độ tự tin dựa trên cơ sở vững chắc nào đó.
Có thái độ tích cực mà không nỗ lực thì chẳng khác nào đang nuôi một giấc mơ hão huyền. Câu chuyện sau đây sẽ giúp bạn thấy giá trị của niềm tin tích cực.
Nhiều năm trước hãng Lockheed tung ra chiếc máy bay Tristar đời L-1011. Để đảm bảo an toàn và kiểm tra công suất động cơ, họ cho thử nghiệm bay trong điều kiện khắc nghiệt nhất suốt 18 tháng, chương trình này tiêu tốn đến 1,5 tỉ đô-la. Đòn bẩy thủy lực, bộ cảm ứng điện tử và máy tính kiểm tra vận tốc máy ròng rã suốt 36.000 lượt bay mô phỏng (tương đương 100 năm sử sụng máy bay) và không có một lỗi chức năng nào. Cuối cùng, sau hàng ngàn thử nghiệm, chiếc máy bay đã được đóng dấu phê chuẩn.
Tập đoàn Lockheed có lý do cho niềm tin của mình không? Chắc chắn có. Có rất nhiều lý do để họ tin tưởng chiếc máy bay này rất an toàn khi sử dụng, vì họ đã đầu tư mọi nỗ lực vào khâu chuẩn bị ban đầu.
 Trích Bí quyết của người chiến thắng – Shiv Khera

7. Cho nhiều hơn nhận
Nếu muốn thăng tiến, bạn hãy cố gắng nhiều hơn nữa. Điều này không nhất thiết bạn phải cạnh tranh với người khác mà vấn đề là bạn có sẵn lòng làm nhiều hơn một chút so với mức lương mình nhận được hay không?

Hầu hết mọi người không mấy hứng thú với công việc mình đang được trả lương, một số người lại chỉ muốn làm với định mức trung bình. Họ làm đúng hạn mức chỉ định để giữ việc làm. Chỉ có một số rất ít là nỗ lực nhiều hơn so với đồng lương được hưởng. Khi nỗ lực như vậy, những gì họ nhận được đó là:
  • Nâng cao giá trị bản thân dù công việc và hoàn cảnh thế nào đi nữa
  • Tăng sự tự tin
  • Được mọi người coi trọng
  • Được mọi người tin cậy
  • Cấp trên bắt đầu quý mến
  • Có được niềm tin và sự gắn bó từ cấp trên cũng như thuộc cấp
  • Phát huy tinh thần hợp tác
  • Đem lại niềm tự hào và mãn nguyện
Ở bất cứ môi trường làm việc nào cũng cần người chăm chỉ dù tuổi tác, kinh nghiệm hay trình độ văn hóa của họ thế nào chăng nữa. Người chăm chỉ:
  • Có thể làm việc không cần giám sát
  • Đúng giờ và chu đáo
  • Chăm chú lắng nghe, thực hiện chính xác hướng dẫn của cấp trên
  • Trung thực
  • Không bực mình khi được yêu cầu cần giúp đỡ trong hoàn cảnh cấp bách
  • Tập trung vào kế hoạch làm việc hơn là nhiệm vụ được giao
  • Vui vẻ và lịch thiệp
Hãy giữ nhiệt tình cho đi nhiều hơn mong đợi của khách hàng, bạn bè, vợ(chồng), bố mẹ, hoặc con cái. Mỗi khi làm gì đó, hãy tự hỏi: “Làm sao để việc mình làm có giá trị hơn nữa?” hay “Mình nên chuyển những điều tốt đẹp ấy đến người khác bằng cách nào? ”.
Bí quyết thành công có thể gói gọn trong bốn từvà hơn thế nữa. Người thành công làm việc họ buộc phải làm - và hơn thế nữa. Người thành công lịch thiệp, phóng khoáng – và hơn thế nữa. Người thành công được tin cậy - và hơn thế nữa. Người thành công đầu tư 100% - và hơn thế nữa.
Không ít người mặc dù rất thông minh, có thành tích học tập xuất sắc, nhưng lại thất bại trong cuộc sống. Lý do là vì họ chỉ giỏi chỉ trích tại sao chuyện này, chuyện nọ không như mong muốn, cũng từ đó mà nảy sinh thái độ sống tiêu cực. Họ không muốn làm việc theo mức lương được hưởng hoặc chỉ muốn làm cho có.
Khi cho đi hoặc làm nhiều hơn mức lương được nhận, ta đã loại bỏ sự cạnh tranh từ người khác. Thực vậy, nhân tố cạnh tranh nằm ngay trong bản thân ta. So với trí thông minh hay bằng cấp chuyên môn, thái độ cạnh tranh với chính mình quan trọng hơn rất nhiều.

 Trích Bí quyết của người chiến thắng – Shiv Khera

8. Sức mạnh lòng kiên trì
“Không gì thay thế được lòng kiên trì. Tài năng cũng không, bởi lẽ cuộc sống có rất nhiều người tài giỏi mà không thành công. Năng khiếu cũng không, vì rất nhiều thiên tài không được công nhận. Giáo dục cũng không, vì thế gian đầy ắp những người có học nhưng không được tuyển dụng và nhìn nhận. Chỉ có sự kiên trì và lòng quyết tâm là thể hiện được sức mạnh vô hạn.”
-Calvin Coolidge-

Hành trình phấn đấu trở thành người như mẫu hình mong muốn không dễ dàng. Có rất nhiều chông gai, trở ngại. Người chiến thắng có thể vượt qua và phục hồi sinh lực với quyết tâm thậm chí còn hơn mạnh mẽ hơn ban đầu.
Có người hỏi Fritz Kreisler – nghệ sĩ violin thiên tài rằng: “Làm sao ngài có thể chơi nhạc hay như vậy? Có phải do may mắn không?”. Ông đáp: “Đó là nhờ khổ luyện. Nếu một tháng không tập luyện, khán giả sẽ nhận thấy tiếng đàn của tôi có sự khác biệt. Nếu bỏ không tập luyện một tuần vợ tôi sẽ nhận ra sự đổi khác. Nếu tôi không tập luyện trong một ngày chính tôi sẽ nhận ra sự khác biệt”.
Sự kiên trì bắt đầu từ cam kết nỗ lực và quyết tâm. Sự nhẫn nại đem đến niềm vui riêng của nó. Vận động viên đầu tư rất nhiều năm khổ luyện chỉ một vài phút chinh phục đỉnh cao.
Sự kiên trì thể hiện ở tinh thần quyết tâm hoàn thành công việc mình đã chọn. Những lúc kiệt sức ta thường muốn bỏ cuộc. Với người thành công thì khác. Họ biết chịu đựng và hoàn thành việc mà họ đã bỏ ra công sức. Có những người thoạt tiên khởi đầu rất tốt nhưng khi gặp trở ngại, họ lại chùn bước, kết quả là họ chẳng bao giờ làm trọn vẹn việc gì cả.
Sự kiên trì được động viên nhờ mục đích mà ta muốn đạt được. Cuộc đời không có mục đích giống như sống mòn. Người không có mục đích sẽ không bao giờ trải nghiệm được cảm giác mãn nguyện trong đời.
 Trích Bí quyết của người chiến thắng – Shiv Khera